Bệnh tưởng bở trong doanh nghiệp ( phần 1 )

Nếu xét đến các yếu tố như lợi nhuận hoạt động lớn hơn lãi vay và tài sản ngắn hạn/ nợ vay ngắn hạn lớn hơn 1 thì có không quá 20% doanh nghiệp niêm yết đáp ứng được các điều kiện này.
Cứ tưởng nên “tốt khoe, xấu che”. Nhưng nhiều doanh nghiệp không thể ngờ việc che giấu thông tin kém lạc quan về MÌNH đã khiến cho nhà đầu tư quay lưng với họ. Không chỉ việc kém minh bạch thông tin, nhiều cái “tưởng” khác đã đưa doanh nghiệp vào cửa tử.


Kém minh bạch

Ông Hoàng Thạch Lân, người từng tham gia công tác quản lý tại Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (HoSE), cho rằng tính minh bạch của doanh nghiệp nhìn chung kém hơn trước.
Năm 2000-2007, giai đoạn thị trường mới phát triển, doanh nghiệp đã rất nhanh nhẹn trong việc công bố thông tin. Công ty càng muốn phát hành thêm cổ phiếu, càng muốn thu hút thêm đối tác chiến lược, họ càng chủ động công bố thông tin. Lúc ấy, các công ty chứng khoán thường xuyên tổ chức các buổi giao lưu giữa doanh nghiệp và nhà đầu tư. Còn bây giờ, khi thị trường chứng khoán suy giảm, cổ phiếu liên tục rớt giá, nhiều công ty thua lỗ, các buổi gặp mặt như thế trở nên thưa thớt dần. Cổ đông muốn trao đổi thông tin với doanh nghiệp nay lại trở thành chuyện rất khó.
Doanh nghiệp cố tình né tránh minh mạch thông tin còn vì lý do khác. Đó là vì áp lực từ phía ngân hàng cho vay, nhà phân phối hay nguy cơ thâu tóm từ những đối thủ mạnh hơn. “Dù là vì lý do gì, việc né tránh đã thể hiện khả năng quản trị yếu kém của doanh nghiệp. Do không có khả năng xử lý vấn đề, họ mới phải che giấu”, ông Lân nhận xét.

Tầm nhìn ngắn hạn

Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chưa có cái nhìn dài hạn. Điều này thể hiện qua kế hoạch kinh doanh của nhiều doanh nghiệp mới tính đến 1-2 năm. Chỉ có một số ít lên kế hoạch dài hơi từ 3-5 năm như Đạm Phú Mỹ (DPM), Bánh kẹo Biên Hòa (BBC) hay Đường Biên Hòa (BHS). Ông Nguyễn Nam Sơn, Giám đốc Điều hành Quỹ Đầu tư Vietnam Capital Partners (VCP), đánh giá: “Một công ty cần lên kế hoạch kinh doanh 5 năm, nhất là đối với lĩnh vực bất động sản”.
Việc hoạch định kế hoạch kinh doanh ngắn hạn khiến doanh nghiệp dễ rơi vào thế bị động, nhất là khi thị trường có những thay đổi bất ngờ. Dễ thấy nhất là ở lĩnh vực bất động sản và chứng khoán. Các công ty chứng khoán chạy đua ra đời trong giai đoạn 2005-2007 theo sự tăng trưởng nóng của thị trường, để rồi hôm nay hàng chục công ty ngắc ngoải, không tìm được lối ra.
Sự hụt hơi này còn thể hiện ở cách điều chỉnh giảm kế hoạch kinh doanh “giữa dòng” thường xuyên của nhiều doanh nghiệp, hay hứa trả cổ tức rồi cứ ậm ờ mãi… Ngay trong năm nay, cả những công ty lớn như Vinacafé Biên Hòa (VCF) hay Công ty PVI (PVI) cũng đều hạ các mục tiêu kinh doanh quan trọng. VCF cho biết sẽ giảm 23% kế hoạch doanh thu và 17% kế hoạch lợi nhuận, còn PVI giảm mạnh mức lợi nhuận trong năm nay đến 35%.

“Ếch muốn bằng bò”

Không ít doanh nghiệp sau khi niêm yết xong là cứ liên tục tăng vốn. Họ chỉ lo tăng quy mô mà không màng đến hiệu quả hoạt động. Năng lực có hạn mà cứ muốn phình to liên tục chẳng khác nào con ếch cố phồng to cho bằng con bò.
Công ty Quốc Cường Gia Lai (QCG) và Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nam Việt (NVB) là 2 trường hợp như thế, xét từ góc độ phát hành ngay sau khi niêm yết. NVB lên sàn vài hôm là chốt quyền mua cổ phiếu mới với tỉ lệ 100:98,9, giá 10.000 đồng/cổ phiếu. QCG cũng nhanh tay chốt quyền mua tỉ lệ 1:1 với giá 15.000 đồng/cổ phiếu.
Theo quy định, khi phát hành tăng vốn, tiền thu được sẽ được hạch toán vào vốn điều lệ một phần, phần còn lại sẽ đưa vào mục thặng dư. Qua nhiều lần tăng vốn, vốn chủ sở hữu sẽ tăng nhiều hơn vốn điều lệ nhờ thặng dư lớn. Việc tăng vốn liên tục tạo ra sự hấp dẫn nhất định cho công ty khi xét chỉ số lợi nhuận mỗi cổ phiếu (EPS), hơn là đánh giá theo hiệu quả sử dụng vốn (ROE). Sự chênh lệch giữa vốn điều lệ và vốn chủ càng lớn càng đẩy EPS của doanh nghiệp đó lên cao, cho dù ROE có thể vẫn ở mức 5-10%.
Ông Lân đưa ra một ví dụ. Giả sử 2 doanh nghiệp niêm yết A và B có cùng vốn chủ sở hữu 800 tỉ đồng, lợi nhuận 50 tỉ đồng, ROE là 6,25%. Doanh nghiệp A có vốn điều lệ 80 tỉ đồng thì EPS sẽ là 6.250 đồng/cổ phiếu. Doanh nghiệp B chỉ có vốn điều lệ 40 tỉ đồng. Khi đó EPS của doanh nghiệp B sẽ là 12.500 đồng/cổ phiếu, gấp 2 lần EPS doanh nghiệp A cho dù ROE của 2 công ty là như nhau.
Lợi thế về EPS sẽ giúp giá cổ phiếu của doanh nghiệp B cao hơn doanh nghiệp A. Tuy nhiên, với EPS cao, doanh nghiệp B cũng phải trả cổ tức cao hơn. Nếu tình hình kinh doanh xấu đi, doanh nghiệp B sẽ chịu áp lực lớn hơn.
Ngoài việc tăng vốn ồ ạt để hưởng lợi thế về EPS, thời gian qua, không ít doanh nghiệp còn tăng vốn với mục đích trả nợ hoặc đầu tư vào dự án ảo, khiến cổ đông mất niềm tin. Bởi vậy, ông Lân cảnh báo: “Việc doanh nghiệp tăng vốn ồ ạt mà không cho thấy được hiệu quả sử dụng vốn sẽ khiến cổ đông chán ngán. Như thế, vô tình doanh nghiệp đã tự đóng một cánh cửa huy động vốn quan trọng: huy động từ cổ đông”.

Theo Giản Phúc