Đó là chưa kể đến việc ban quản trị thiếu chiến lược tài chính và chiến lược thị trường dài hạn. “Không nhiều doanh nghiệp vạch ra kế hoạch kinh doanh dài hạn từ 5 năm đến 10 năm mà chỉ 1 năm”, ông Nam Sơn nhận xét.
Tuy vậy, ông Đỗ Minh Phú, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty DOJI, người sở hữu 6 công ty con và hoạt động đa ngành khá thành công trong các lĩnh vực trang sức, nhà hàng, khoáng sản, khu công nghiệp, thương mại, băng vệ sinh lại cho rằng, vấn đề không phải có nên đầu tư đa ngành hay không mà là phải chọn cách thức đầu tư đa ngành hợp lý để tạo hiệu quả kinh doanh cao nhất. Vì thế, ông cho biết khi bước vào lĩnh vực nào, ông cũng đều khá thận trọng. Ông Minh Phú chia sẻ rằng chưa bao giờ có ý định sẽ dùng tiền của ngân hàng Tiên Phong (một ngân hàng mà ông và em trai đã mua lại gần đây) để tài trợ cho các công ty con khác. Và với các công ty của mình, ông cũng không có ý định biến chúng thành công ty gia đình.
“Tôi không tán thành chuyện mua ngân hàng để dùng nó vào các mục đích đầu tư khác. Điều này vô cùng rủi ro về mặt pháp lý. Bên cạnh đó, nếu để tình trạng xảy ra sở hữu chéo giữa các công ty và ngân hàng, có thể chúng ta sẽ đối mặt với nhiều kết cục bi thảm”, ông Minh Phú nói.
Dù vậy, ông Trương Đình Tuyển, nguyên Bộ trưởng Thương mại, vẫn cho rằng Việt Nam nên xem xét cách làm của Hàn Quốc. Đó là những ông chủ đã sở hữu ngân hàng không được phép sở hữu những doanh nghiệp khác.
Bất động sản sẽ chết trong vòng 2 năm tới
Phần lớn các công ty hoạt động đa ngành đều dính đến bất động sản và đây là vấn đề được thảo luận sôi nổi tại Hội nghị. “Trong vòng 2 năm tới, đa số các công ty bất động sản sẽ bị phá sản”, ông Nam Sơn dự báo.
Điển hình của sự khốn khó là thị trường nhà ở. Các căn hộ cao cấp liên tục được các chủ đầu tư hạ giá nhưng vẫn không có người mua. Tình trạng này buộc nhiều chủ đầu tư phải trì hoãn các dự án đang thực hiện, như dự án Saigon Residences, Saigon One – M&C và New Pearl. Và không chỉ thị trường nhà ở mà cả thị trường văn phòng cũng vô cùng ảm đạm. Trong 2 năm gần đây, nguồn cung mỗi năm tại thị trường văn phòng cho thuê Hà Nội luôn cao hơn mức 30%/năm. Ước tính đến năm 2014, nó sẽ đạt con số 2 triệu m2 và tỉ lệ diện tích trống sẽ hơn 40%, dù thị trường có hấp thụ tốt đến đâu đi nữa. Giá thuê văn phòng cũng giảm liên tục trong 11 quý gần đây.
Theo ông Marc Townsend, Tổng Giám đốc của CBRE Việt Nam, thị trường căn hộ sẽ khó hồi phục nhanh. “Chu kỳ lạm phát những năm gần đây cho thấy, độ trễ từ khi lạm phát và lãi suất giảm xuống còn dưới 10% cho đến khi thị trường căn hộ hồi phục là 6 tháng”, ông Townsend nói.
Bà Nguyễn Thị Mai Thanh, Tổng Giám đốc Công ty Cơ điện REE, cho rằng bất cứ doanh nghiệp ở lĩnh vực nào nếu muốn làm bất động sản đều phải có hiểu biết về ngành này. Đất đai ở Việt Nam do được cấp theo cơ chế xin-cho nên doanh nghiệp nào “chạy” nhiều thì được nhiều. Tăng trưởng nóng cùng với tín dụng khá dễ dãi đã dẫn đến hậu quả như ngày hôm nay.
Hiện nay, các doanh nghiệp bất động sản Việt Nam đã đứng trước những rủi ro lớn. Hệ số nợ/vốn chủ sở hữu của các công ty bất động sản Việt Nam là 120%, so với mức trung bình 45% của doanh nghiệp cùng nghề trong khu vực Đông Nam Á. Đồng thời, hệ số nợ/lợi nhuận trước thuế và lãi vay của một số doanh nghiệp ngành này đã ở mức 10 lần như các doanh nghiệp Phát Đạt, Sacomreal, Quốc Cường Gia Lai, Đầu tư Kinh Bắc. Trong khi đó, rủi ro phá sản nếu thị trường diễn biến xấu với chỉ số này là khoảng 6 lần. Điều này cho thấy các doanh nghiệp lỡ dính vào bất động sản cần phải rút nhanh ra khỏi thị trường này.
Theo ông Nam Sơn, phải giảm giá bán thêm 50% nữa để bằng với mức giá chung của các nước châu Á. Nghiên cứu của ông ở thị trường Việt Nam cho thấy, giá bán căn hộ chỉ nên từ 60.000 – 100.000 USD/căn. Chủ đầu tư cũng phải giảm chi phí xây dựng, trang thiết bị phải đẹp và phải giảm diện tích căn hộ. Nhìn sang thị trường Bangkok sẽ thấy hơn 90% số căn hộ mới xây đều có diện tích nhỏ hơn 50 m2.
Rất có thể 5 năm nữa thị trường bất động sản mới phục hồi và 2 năm tới là khoảng thời gian khó khăn nhất. Theo ông Townsend, để giải phóng hàng tồn, các chủ đầu tư cần phải bán tháo. “Tại Bangkok có nhiều dự án phải treo với thời hạn lên đến 10 năm và các dự án của Việt Nam cũng có thể rơi vào hoàn cảnh tương tự. Tôi nghĩ rằng cách để chủ đầu tư bất động sản thoát nhanh khỏi các dự án là treo biển bán tháo và bán càng nhanh càng tốt”, ông nói. Tuy nhiên, không phải dễ dàng để bán tháo. Rất nhiều chủ dự án ở Việt Nam vẫn còn nặng tâm lý “bán là thất bại” hay mất thể diện, nên chưa thực sự thoải mái khi tiếp xúc với các nhà đầu tư, các quỹ đầu tư hay các đơn vị môi giới. Vì thế, cách cuối cùng để thoát khỏi thị trường hiện nay là không làm gì cả. “Hãy đi du lịch hoặc chơi golf. Thời gian này là không thuận lợi để kinh doanh bất động sản và chắc chắn lợi nhuận cũng không còn cao”, ông nói bông đùa.
Vốn ơi, khó quá!
Khi căn bệnh được đưa ra, phương thức nào sẽ chữa được bệnh? Ông Dominic Price, Tổng Giám đốc JP Morgan Việt Nam, khuyến nghị: trong bối cảnh thị trường chứng khoán còn non trẻ (quy mô giao dịch khoảng 25-30 triệu USD/ngày) cộng với việc hạn chế tăng trưởng tín dụng trong nước thời gian qua, huy động vốn quốc tế là một trong các giải pháp tích cực đối với doanh nghiệp Việt Nam.
Biểu hiện tích cực đầu tiên có thể thấy là từ các thương vụ mua bán và sáp nhập năm ngoái với hơn 260 vụ, tổng giá trị gần 3,7 tỉ USD. Các ngành nhộn nhịp nhất là công nghiệp chế biến (chiếm tỉ lệ 24% năm 2011), hàng tiêu dùng nhanh (20%), nguyên vật liệu (16%), ngân hàng (15%) và bất động sản (8%).
Hai là, các doanh nghiệp trong nước có thể huy động vốn quốc tế thông qua phát hành riêng lẻ cổ phiếu, phát hành trái phiếu chuyển đổi, vay vốn có bảo lãnh và không bảo lãnh hoặc niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán nước ngoài.
Ông Trương Đình Tuyển, cũng đồng ý với giải pháp doanh nghiệp nên tìm vốn quốc tế. Nhưng cùng với ông Võ Trí Thành, ông dự báo sẽ có rất ít doanh nghiệp tìm được vốn theo cách này vì thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong nước chưa hình thành, việc phát hành trái phiếu ra quốc tế còn phụ thuộc vào uy tín quốc gia, thương hiệu doanh nghiệp. Vingroup chỉ là số ít các doanh nghiệp đã thành công khi phát hành trái phiếu tại Singapore.
Để xây dựng một thị trường trái phiếu trong nước thành công, theo ông Thành, cần phải kiên nhẫn và thực hiện từng bước, với thời gian từ 7-10 năm.
Đứng ở góc độ vĩ mô để phân tích vốn doanh nghiệp, ông Tuyển cho rằng, với thói quen xem vốn ngân hàng là chủ yếu thì các doanh nghiệp cần hiểu rằng tín dụng tiếp tục không đi ra được nền kinh tế, một phần là do nhu cầu giảm. Ngược lại, những doanh nghiệp có khả năng tiếp tục kinh doanh thì nợ xấu lớn nên chắc chắn cũng sẽ không tiếp cận được vốn
Theo nhipcaudautu