Trong thu hút đầu tư nước ngoài, hiệu ứng “đàn sếu bay” luôn là một lợi thế để ta tận dụng. Khi đã có được một vài thương vụ hấp dẫn, lập tức sẽ hút thêm các NĐT khác tham gia.
Đó là ý kiến của ông Phạm Mạnh Thường, Phó Tổng giám đốc Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (Bộ Tài chính).
Sau sự ra đời của Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC), có nhiều ý kiến khác nhau về việc huy động nguồn lực trong nước hay trông chờ nhà đầu tư (NĐT) nước ngoài vào giải quyết nợ xấu. Quan điểm của ông về vấn đề nàynhư thế nào?
Ông Phạm Mạnh Thường:Có thể thấy thị trường nợ xấu ở ta còn khá sơ khai và chưa được khai thác, đang có sức hút khá tốt với các NĐT nước ngoài. Hiện đã có một số NĐT chuyên nghiệp nước ngoài dưới dạng các quỹ, ngân hàng đầu tư vào tìm kiếm cơ hội đầu tư. Trong bối cảnh nợ xấu cao như hiện nay, chúng ta cũng cần họ để có thêm sự lựa chọn cho việc xử lý nợ xấu, đặc biệt là việc châm ngòi cho quá trình xử lý nợ xấu ở quy mô lớn.
Vấn đề là ở chỗ, trong thời gian ngắn trước mắt ta chưa thể trông mong được vào các NĐT nước ngoài. Bởi lẽ, còn nhiều rào cản về thủ tục hành chính, cơ chế chính sách cần có thời gian để điều chỉnh và các NĐT nước ngoài cũng có những yêu cầu, thị hiếu đầu tư riêng mà chúng ta không thể ngày một ngày hai đáp ứng được.
Ông có thể phân tích rõ hơn về những rào cản này?
Đầu tiên, câu chuyện tuy cũ nhưng vẫn phải nhắc lại. Đó là số liệu về nợ xấu của các TCTD còn thiếu độ tin cậy. Ở một thị trường mà tính minh bạch thông tin thấp thì thật khó thu hút các NĐT chuyên nghiệp. Hơn nữa bản thân NĐT cũng muốn biết mức độ nợ xấu thực tế là bao nhiêu để họ tính toán quy mô đầu tư và chiến lược tham gia phù hợp.
Các NĐT quan tâm nhiều tới khía cạnh lợi ích theo quy mô và mức hiệu quả về chi phí. Khi vào đầu tư ở một thị trường mới, họ phải bỏ công sức, chi phí để đánh giá, rà soát pháp lý, tìm hiểu thực chất thị trường, phân loại đối tượng xử lý… nên quy mô thị trường phải đủ lớn mới hấp dẫn được họ tham gia.
Thứ hai, NĐT nước ngoài rất quan tâm tới yếu tố thời gian. Những thủ tục hành chính và chất lượng của công tác bàn giao hồ sơ, thu hồi và bán tài sản đảm bảo, đăng ký giao dịch đảm bảo, xác lập quyền sở hữu tài sản, thủ tục phán xử ở tòa án, công tác thi hành án ở Việt Nam rất rườm rà, mất thời gian là những rào cản làm nản lòng các NĐT nước ngoài.
Thứ ba, quy trình ra quyết định nhiều tầng nấc cũng là trở ngại lớn. Khu vực tư nhân thường có được những quyết định nhanh, nhưng với những tổ chức có vốn Nhà nước thì phải chờ “thống nhất ý kiến, xin ý kiến chỉ đạo” mới có được các quyết định. Việc chậm có quyết định cũng là một cản trở thu hút NĐT nước ngoài.
Thứ tư, ở ta không có nhiều những món nợ xấu riêng lẻ hàng chục hay cả trăm triệu USD và mỗi DN lại vay từ nhiều ngân hàng mà NĐT nước ngoài lại không thể đàm phán với từng chủ nợ được nên họ thường chào mua nợ xấu theo những lô lớn kiểu mua vo cả mớ hay mua những lô đã được phân loại.
Bởi vậy, các TCTD trong nước cần sự chủ động trong việc chào bán cả mớ hay có sự liên kết để gói nợ xấu theo từng nhóm đối tượng khi chào bán cho NĐT ngoại. Với chức năng làm cầu nối của mình, vấn đề chào bán cả mớ cũng có thể được khắc phục khi VAMC đi vào hoạt động.
Hiện không ít ý kiến băn khoăn, trong bối cảnh thị trường đang ở đáy, mà bán nợ cho NĐT nước ngoài, Việt Nam sẽ rơi vào bẫy bị thâu tóm tài sản giá rẻ. Vậy làm thế nào để tránh được nguy cơ này?
Trong thời kỳ suy thoái, giá tài sản xấu đang ở mức rất thấp, nếu không có chiến lược chào bán một cách thích hợp thì có thể dẫn đến trường hợp NĐT thâu tóm tài sản giá rẻ. Do vậy, một mặt mình mời chào, mặt khác cũng cần các bước đi, có sự lường định để tránh chuyện bị thâu tóm. Hơn nữa, chúng ta đang có lợi thế là các ngân hàng không còn phải lo về thanh khoản, không phải vội bán tống bán tháo nợ xấu, nên hoàn toàn có thể kết hợp một số “mánh” kỹ thuật chào bán để vừa thu hút đầu tư vừa tránh bị ép giá.
Trong thu hút đầu tư nước ngoài, hiệu ứng “đàn sếu bay” luôn là một lợi thế để ta tận dụng. Khi đã có được một vài thương vụ hấp dẫn, lập tức sẽ hút thêm các NĐT khác tham gia. Đông khách tự khắc có cạnh tranh, và khi đã có cạnh tranh thì sẽ không lo mất giá.
Ngoài ra, NĐT ngoại sẽ mang tới những kỹ năng và cách thức xử lý “hiện đại” mà chúng ta chưa có và việc học hỏi sẽ giúp ta tự tạo được giá trị gia tăng từ xử lý nợ xấu. Đồng thời với việc mời NĐT nước ngoài, cũng cần quan tâm tới các NĐT trong nước.
Mặc dù những NĐT trong nước dường như không có nhiều kỹ năng xử lý nợ xấu ở quy mô lớn và bị hạn chế về nguồn lực, nhưng họ có lợi thế về ngôn ngữ, văn hóa, phong tục tập quán nên họ có thể tạo sự đối trọng với NĐT nước ngoài nếu các TCTD và Nhà nước có những sự nâng đỡ cho họ. NHNN và các TCTD cần đặt ra mục tiêu thời điểm nào giảm được bao nhiêu nợ xấu để có bước đi phù hợp tránh nguy cơ bán ồ ạt tài sản vào một thời điểm nào đó cho đủ “chỉ tiêu” để tránh bị ép giá.
Ngược lại, một số NHTM với tiềm lực tài chính tốt có thể thực hiện chiến lược “găm hàng chờ giá lên”. Nền kinh tế hồi phục sẽ đẩy giá tài sản tăng giúp họ nâng cao giá trị thu hồi từ nợ xấu. Tuy nhiên, “nợ xấu càng để càng xấu” là một sự thừa nhận từ kinh nghiệm quốc tế nên đây là điều cần lưu ý khi mỗi TCTD tùy vào tình thế nội tại và bản chất nợ xấu của mình để xác lập chiến lược xử lý phù hợp.
Xin cảm ơn ông!
Theo Tạp chí tài chính