“Ma trận” của sở hữu chéo đã tồn tại từ nhiều năm trước trong hệ thống TCTD đến nay vẫn còn là vấn đề phức tạp, khiến hoạt động của các TCTD không minh bạch, gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực.
Pháp luật cấm…
Sở hữu chéo và đầu tư chéo là hiện tượng trong nền kinh tế thị trường. Sở hữu chéo ở mức độ nhất định sẽ mang lại những lợi ích cho bản thân chủ thể TCTD như hỗ trợ nguồn vốn cho hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện trao đổi kinh nghiệm, nguồn nhân lực, tài chính, công nghệ giữa các đối tác.
Tuy nhiên, trong điều kiện các công cụ thanh tra, giám sát chưa hiệu quả, sở hữu chéo, đầu tư chéo dễ bị lạm dụng, tạo ra chuỗi sở hữu phức tạp, khó kiểm soát, dẫn đến các nguyên tắc quản trị DN, quản trị rủi ro không được tôn trọng, hoạt động kinh doanh kém minh bạch, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Điều này đặc biệt nghiêm trọng xảy ra tại các TCTD khi bị nhóm cổ đông thao túng, liên kết ngầm thực hiện các hoạt động cho vay, đầu tư lòng vòng lẫn nhau, khiến các cơ quản quản lý cũng như nhà đầu tư không đánh giá chính xác được thực chất vốn và hoạt động tài chính của TCTD, do đó đe dọa đến an toàn của bản thân TCTD và của toàn hệ thống.
Theo quy định pháp luật, Luật Các TCTD năm 2010 không cho phép các TCTD sở hữu cổ phần lẫn nhau (Khoản 5 Điều 129), không cho phép các công ty con, công ty liên kết của một TCTD được góp vốn, mua cổ phần của chính TCTD đó (Khoản 2 Điều 135). Đồng thời, Luật Các TCTD cũng quy định về giới hạn sở hữu của cổ đông và nhóm cổ đông tại TCTD (Điều 55 Luật Các TCTD). Tuy nhiên do yếu tố lịch sử, trên thực tế, hiện vẫn còn một số TCTD góp vốn tại nhiều TCTD khác hoặc có sở hữu cổ phần lẫn nhau (các hiện tượng này xảy ra từ trước khi Luật Các TCTD 2010 có hiệu lực) hoặc có một số trường hợp TCTD thông qua các công ty con của mình sở hữu cổ phần của TCTD khác hoặc cổ đông sở hữu cổ phần của TCTD thông qua vốn vay của TCTD hoặc DN khác…
…vẫn vi phạm
Theo ông Bùi Huy Thọ, Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý cấp phép các TCTD và hoạt động ngân hàng, cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, qua công tác thanh tra, giám sát vấn đề cổ đông, cổ phần, cổ phiếu và quan hệ tín dụng của TCTD với công ty con, công ty liên kết… đã thấy một số vấn đề nổi cộm, nhiều giao dịch sở hữu chéo, đầu tư chéo trong hệ thống ngân hàng có dấu hiệu bị lạm dụng, bị khai thác để phục vụ một hay một số nhóm lợi ích nhất định, tạo xung đột lợi ích trong hoạt động TCTD và cổ đông, tiềm ẩn rủi ro đối với hệ thống TCTD và cả hệ thống tài chính. Ông Bùi Huy Thọ cho biết cụ thể, hiện có một số cặp TCTD có sở hữu cổ phần trực tiếp lẫn nhau.
Về thực trạng một TCTD sở hữu cổ phần tại nhiều TCTD khác, số liệu giám sát cho thấy còn nhiều TCTD có cổ đông là TCTD khác, trong đó nhiều ngân hàng sở hữu cổ phần tại nhiều TCTD. Ngoài ra còn có thực trạng một ngân hàng cùng với các cổ đông của ngân hàng sở hữu cổ phần tại nhiều TCTD khác, một ngân hàng sở hữu cổ phần tại một TCTD đồng thời nhận ủy thác đại diện cho các cổ đông tại chính TCTD đó hay một số ngân hàng có sở hữu cổ phần tại TCTD khác và lại có quan hệ vay vốn/tiền gửi lớn với TCTD đó.
Theo ông Thọ, một số cổ đông (kể cả cổ đông là tổ chức, cá nhân) và người có liên quan còn nắm giữ cổ phần của TCTD vượt quá tỷ lệ cho phép theo quy định của pháp luật, đồng thời lại có quan hệ vay mượn lớn đối với TCTD lớn hơn cả cổ phần, hoặc vốn góp vào TCTD. Bên cạnh đó, một vài ngân hàng vẫn còn tồn tại tình trạng mua trái phiếu của công ty con hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm (hình thức cấp tín dụng cho công ty con) hoặc đặt cọc, ủy thác đầu tư qua công ty con. Ngược lại, các công ty con cũng thực hiện nhiều giao dịch như gửi tiền hoặc sở hữu cổ phiếu của chính ngân hàng.
Tác động xấu tới nền kinh tế
Tình trạng sở hữu chéo, đầu tư chéo trước hết sẽ tạo rủi ro dòng vốn ảo, giảm tính minh bạch, gia tăng rủi ro cho hoạt động ngân hàng. TS. Nguyễn Xuân Thành, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright (FETP) cho rằng, các cổ đông có thể thực hiện các giao dịch sở hữu chéo, đầu tư chéo phục vụ lợi ích nhóm tạo ra vốn ảo, lợi nhuận ảo… làm cơ quan quản lý, nhà đầu tư khó có thể xác định được thực chất vốn và tài chính của TCTD. Sở hữu chéo hình thành những khoản vốn khổng lồ nhưng chỉ có trên giấy tờ, sổ sách mà không được đưa ra thị trường, không phục vụ cho nền kinh tế, tạo ra tình trạng tăng vốn ảo trong các ngân hàng. Chính kết quả này kéo theo hệ lụy làm sai lệch về quản trị TCTD cũng như việc đánh giá rủi ro, trích lập dự phòng hay giám sát đối với hoạt động tài chính nói chung.
Ngoài ra, theo các chuyên gia, sở hữu chéo, đầu tư chéo còn tiềm ẩn rủi ro hệ thống và bóp méo cạnh tranh. Khi các TCTD liên kết thành một “mạng nhện” sẽ nảy sinh độc quyền nhóm. Liên minh TCTD này có thể đủ sức mạnh để chi phối lãi suất, tỷ giá và kể cả chính sách, dẫn đến rủi ro mang tính hệ thống. Điều này có thể gây xáo trộn thị trường và thiệt hại cho nền kinh tế.
Kiểm soát “vốn ảo”
Đưa ra giải pháp cho vấn đề này, TS. Nguyễn Xuân Thành cho rằng, phải xác định danh sách cổ đông cần đặc biệt quan tâm và giám sát chặt chẽ quan hệ tín dụng của các đối tượng này. Còn theo ông Bùi Huy Thọ, để giải quyết vấn đề này, cần kiểm soát vấn đề “vốn ảo” trong hệ thống. Theo đó, NHNN đã và đang chú trọng vào công tác xác định nguồn lực tài chính của các cổ đông khi tham gia góp vốn, mua cổ phần tại TCTD. “Để đảm bảo nguồn vốn của các cổ đông là cá nhân, tổ chức đầu tư vào TCTD là hợp pháp và phản ánh đúng thực chất năng lực tài chính của họ, khi xem xét việc tăng vốn điều lệ của các TCTD, NHNN tăng cường công tác xác minh nguồn tiền của các cổ đông và người có liên quan khi tham gia góp vốn, mua cổ phần tại các TCTD thông qua các hồ sơ chứng minh năng lực tài chính và quan hệ tín dụng tại các TCTD” – ông Thọ cho biết.
Ngoài ra, theo các chuyên gia, NHNN cần phối hợp với Ủy ban chứng khoán theo dõi, giám sát chặt chẽ việc mua bán, chuyển nhượng cổ phần của các TCTD trên thị trường chứng khoán. Cùng với đó là phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính thông qua các cơ quan thanh tra, giám sát chuyên ngành chứng khoán, bảo hiểm theo dõi, kiểm tra, giám sát chặt chẽ các giao dịch sở hữu chéo, đầu tư chéo giữa các DN hoạt động trong các lĩnh vực thị trường ngân hàng – chứng khoán – bảo hiểm nhằm hạn chế rủi ro tiềm ẩn và xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh.
Sở hữu chéo, đầu tư chéo đã và đang là vấn đề nổi cộm hiện nay trong hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính, không những tạo ra rủi ro khôn lường, đe dọa an toàn hệ thống các TCTD mà còn cho cả thị trường tài chính Việt Nam. Do vậy, chung tay xử lý sở hữu chéo, đầu tư chéo là việc mà các cơ quan, ban ngành hữu quan cần quan tâm và xử lý càng sớm càng tốt.
Ông Đinh Tuấn Minh, chuyên gia kinh tế tại Ngân hàng Quân đội:
Xây dựng thị trường vốn có chi phí giao dịch thấp
Để hạn chế sở hữu chéo trong dài hạn, cần xây dựng thị trường tín dụng và thị trường vốn có chi phí giao dịch thấp. Thị trường này cần một hệ thống thông tin minh bạch, hệ thống pháp lý tốt hơn (quyền sở hữu rõ ràng; phát mại tài sản dễ dàng; thủ tục phá sản nhanh). Thị trường này cũng cần năng lực giám sát thị trường tín dụng và thị trường vốn hiệu quả hơn cũng như thực hiện xây dựng chỉ số tín nhiệm DN. Bên cạnh đó, cũng cần chuyển đổi nhận thức của các chủ DN về quản trị DN dựa trên mối quan hệ gia đình sang quan hệ thị trường các nhà quản lý.
Luật sư Trương Thanh Đức, Chủ tịch Công ty Luật Basico, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Pháp chế Ngân hàng:
Cần minh bạch số liệu
Việc sở hữu chéo, đầu tư chéo đã giúp các tổ chức tài chính không phải tuân thủ hầu hết các quy định đảm bảo tài sản, bao gồm quy định về an toàn vốn, quy định về giới hạn tín dụng cấp cho một khách hàng, qui định về hạn chế góp vốn, sở hữu chứng khoán bất động sản và quy định quản lý nợ xấu. Đầu tư chéo, sở hữu chéo đã gián tiếp khiến cho việc cấp tín dụng không khách quan, quay vòng đảo nợ, dẫn đến nợ xấu. Giải pháp cho vấn đề này cần được đặt trên một hệ thống số liệu minh bạch, khách quan, không mù mờ thì mới đưa ra được giải pháp đúng và trúng.
Ông Vũ Viết Ngoạn, Chủ tịch Ủy ban giám sát tài chính quốc gia:
Cơ chế pháp luật cần sâu sát với thực tế
Bản chất của sở hữu chéo không phải hoàn toàn nguy hại, tuy nhiên sở hữu chéo dễ bị lạm dụng bởi nó tạo cơ hội để cổ đông chi phối định chế tài chính và sử dụng định chế tài chính như một công cụ để đầu tư, cấp vốn theo mục đích riêng của họ. Hệ quả là dẫn tới những giao dịch tài chính vượt ra ngoài khuôn khổ an toàn theo quy định của pháp luật, thoát ly khỏi vòng kiểm soát của các cơ quan quản lý. Hơn nữa, sở hữu chéo còn là một chất dẫn gây lan truyền rủi ro giữa các định chế tài chính, các DN có liên quan khi cổ đông gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh và tài chính. Do đó, cơ chế pháp luật cần phải sâu sát với hiện tượng lách quy định hiện nay.
TS. Nguyễn Xuân Thành, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright:
Giải quyết sở hữu chéo là một nội dung của tái cấu trúc
Xóa bỏ sở hữu chéo là một nội dung trong nỗ lực tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. Để làm được việc này cần giải quyết ba vấn đề. Thứ nhất là thoái vốn DN Nhà nước khỏi ngân hàng thương mại. DN Nhà nước có thể bán cổ phần cho một công ty quản lý vốn, sau đó bán lại cho các nhà đầu tư bên ngoài theo một lộ trình nhất định. Thứ hai là mua bán sáp nhập các ngân hàng, dùng mua bán, sáp nhập để giảm sở hữu chéo. Thứ ba là hạn chế những tác động tiêu cực của sở hữu chéo bằng cách định nghĩa lại khái niệm người có liên quan, công bố thông tin minh bạch, rõ ràng và xây dựng chế tài đủ mạnh để hạn chế hành vi vi phạm.
Huyền Bảo(ghi)
Theo Báo Hải quan