Chiều ngày 8/11/2013, Bộ Thông tin và truyền thông đã họp báo trả lời chính thức về việc tăng cước 3G của 3 nhà mạng lớn nhất Việt Nam.
Cục trưởng Cục Viễn thông đã cho biết căn cứ để Cục Viễn Thông chấp nhận đăng ký điều chỉnh cước 3G.
Về luật pháp, Cục căn cứ vào Điều 55,43 Luật viễn thông, Điều 5 Luật giá, Điều 13 Luật cạnh tranh về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.
Sở căn cứ thực tế:
(1) Theo báo cáo của các doanh nghiệp, giá thành trung bình kế hoạch 2013 đối với dịch vụ 3G đang là 167,66 đồng/Mb (chưa VAT) nhưng các nhà mạng chỉ tính giá cước 100 đồng/Mb (54% giá thành).
(2) Giá cước dịch vụ dữ liệu 3G của Việt Nam sau khi điều chỉnh trung bình là 111 đ/MB, chỉ bằng 34,9% mức giá cước trung bình của khu vực ASEAN (318 đ/MB). So sánh tương đối theo GDP bình quân thì mức giá cước của Việt Nam (4,8 USD) chỉ bằng 18% (trả trước) đến 27% (Trả sau) so với mặt bằng chung của thế giới, bằng 34% (trả trước) đén 57%(trả sau) so với mặt bằng chung khu vực châu Á Thái Bình Dương.
(3) Cung cầu trên thị trường: các DN đã đầu tư 27.779 tỷ đồng để triển khai mạng thông tin động băng rộng công nghệ HSPA. Trong giai đoạn đầu được phép hạ giá cước do cung rất lớn trong khi cầu thấp. Theo số liệu của Phòng quản lý giá cước (Cục Viễn thông), tính đến tháng 9/2013, Việt Nam có khoảng 18,94 triệu thuê bao 3G đang hoạt động (có phát sinh cước). Cầu tăng lên cho phép DN tăng giá dịch vụ để doanh nghiệp có nguồn tiền tái đầu tư.
Đợt tăng giá cước 3G vừa qua, Cục Viễn thông cho biết có 2,72% số thuê bao trong tổng số 91 triệu thuê bao di động phát sinh cước trong tháng 9 được giảm giá cước. Chỉ có 8,66% số thuê bao bị tăng giá. Còn lại được giữ nguyên.
(4) Doanh thu bình quân trên thuê bao ở VN là 4,44 USD/tháng/ thuê bao trong khi các nước phát triển là 20USD. Điều này khiến DN kinh doanh không có lãi, khiến môi trường đầu tư nước ngoài kém hấp dân và về lâu dài gây bất lợi cho người dân.
Phương thức, mức điều chỉnh của các DN là hợp lý đảm bảo nguyên tắc tăng giá cước theo lộ trình Chính phủ phê duyệt.
Nếu như vậy, để hòa vốn và có lời, các nhà mạng phải tăng ít nhất 43% nữa. Vậy trong thời gian tới có tăng nữa không?
Thứ trưởng Bộ thông tin truyền thông trả lời: “Giá thành phụ thuộc lớn vào cung cầu. Giai đoạn đầu phải cung cấp giá thấp để thu hút người dùng. Theo lộ trình, tất cả giá cước dịch vụ chứ không chỉ 3G sẽ điều chỉnh để đạt được giá thành để giá cước bám sát giá thành, để DN hoạt đông có hiệu quả.”
Giá sẽ giảm trên cơ sở giá thành (khi giá thành thấp hơn giá cước) và so sánh với khu vực. Đó là quy luật của thị trường.
Bên canh đó, viễn thông là ngành khấu hao rất nhanh (2-3 năm) và phải xin cơ chế đặc thù để khấu hao nhanh do sự thay đổi chóng mặt của công nghệ. Khi đó giá thành bị đẩy nhanh lên, chứ không khấu hao trong thời gian dài như các ngành hạ tầng khác. Công nghệ hiện nay là 3,5G, không phải 3G, tức vượt qua cả các cam kết trước đây của DN. 5,6 năm nữa mới đầu tư thế hệ băng rộng tiếp theo (4G, 5G).
Không chỉ thế, việc đầu tư của ngành viễn thông tại vùng sâu vùng xa, hoàn toàn do DN tự thực hiện. Theo thứ trưởng, việc tăng giá cước 3G chủ yếu tác động đến những người ở thành thị nên có thể tăng để bù đắp cho người ở vùng miền núi, nông thôn.
Phần thu lũy kế cho 3G là chưa đủ bù đắp những chi phí đã bỏ ra. Khi khách hàng truy nhập internet bằng 3G, DN Việt Nam phải thanh toán cho đối tác nước ngoài, nhiều gấp đôi mức thanh toán cho 2G trước đây. Đó là một sự thiệt thòi đối với các nước đang phát triển như Việt Nam.
Luật Cạnh tranh không cho phép bù chéo giữa các dịch vụ, và chỉ bù chéo trong phạm vi nhất định. Các DN thống lĩnh thị trường bán với giá cước thấp và khuyến mãi khiến cho DN nhỏ không gia nhập được thị trường. Nếu tiêp tục thực hiện cơ chế bù chéo có thể gây ra sự độc quyền.
Con số so sánh với nước ngoài gây thắc mắc khi các nước được chọn để so sánh là nước phát triển. Bộ cho biết sự so sánh với nước ngoài là so sánh tương đối giữa phần chi trả cho mỗi MB là bao nhiêu % GDP bình quân chứ không phải tuyệt đối nên là hợp lý.
Giá thành các dịch vụ viễn thông được xác định dựa trên các văn bản pháp luật quy định và hướng dẫn. Nhưng không phải mỗi lần tăng cước lại phải thuê kiểm toán vì việc kiểm toán là hàng năm. Doanh thu tăng lên sau khi tăng giá cước xin chờ kiểm toán.
Về sự tương đồng giữa các gói cước, Bộ cho biết trong tổng số 42 gói cước của các DN, có 3 gói tương đồng nhau. 39 gói còn lại hoàn toàn khác nhau.
Về việc chất lượng sóng chưa tương xứng với mức giá dịch vụ, Thứ trưởng trả lời: “Ban đầu, ít người dùng, chất lượng sóng cao. Nhưng hiện tại chất lượng giảm do số lượng người dùng đông. Nhưng nếu không có nguồn thu thì không mở rộng nâng cấp, tăng chất lượng dịch vụ được.”
Trước đó, từ 0h ngày 16/10, cả 3 doanh nghiệp viễn thông lớn là Viettel, Mobifone và Vinaphone đã đồng loạt tăng cước 3G sau khi được sự đồng ý của Bộ Thông tin và Truyền thông với mức tăng trung bình 20%. 3 nhà mạng cùng nhau đưa gói cước 50.000 đồng lên thành 70.000 đồng (40%). Trước hành động này, dư luận đã tỏ ra nghi ngờ VinaPhone, MobiFone và Viettel bắt tay thông đồng nâng giá dịch vụ.
Giải đáp sự nghi ngờ này, Bộ trả lời: việc DN có bắt tay nhau hay không sẽ được Bộ Công thương điều tra và xử lý theo quy định của Pháp luật.
Hồi tháng 4, Mobifone và Vinaphone cũng đã nâng giá gói cước không giới hạn đang được nhiều người sử dụng thêm 25%, từ 40.000 đồng một tháng lên 50.000 đồng. Viettel không tăng giá nhưng gộp chung phí duy trì và cước vào làm một, ngang bằng mức của hai.
Việc tăng cước 3G đã khiến cho ngành vận tải chao đảo vì chi phí tăng vọt.
Theo Trí Thức Trẻ